Một số giải pháp góp phần chống hạn với miền Trung, các vùng cao nguyên và miền núi cao

TS. Lê Huy Y| 25/03/2015 09:40

Ngày nay và sau này khi mà biến đổi khí hậu làm cho đồng bằng nhỏ dần phải mở rộng dân cư lên vùng cao hơn thì vấn đề nước sinh hoạt sẽ ngày càng khó khăn. Đặc biệt hiện nay miền Trung, cao nguyên đang rất khô hạn. Để góp phần vào sự nghiệp tìm nước cho vùng miền Trung nói riêng, nhiều nơi khác nói chung, Liên hiệp Khoa học Địa chất và Du lịch thuộc Tổng hội Địa chất Việt Nam xin chia sẻ một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình công tác để mọi người cùng xem xét, ứng dụng.

ADQuảng cáo

Cơ sở khoa học:

Theo chúng tôi, nước ngầm ở Trung du và miền núi có nguồn gốc nội sinh là chủ yếu, chúng chỉ được tạo thành tại giao điểm của các đứt gẫy kiến tạo, thường là 4 đứt gẫy và tại đó phải có các hoạt động đi kèm của xâm nhập nông á núi lửa trẻ (nước có nguồn gốc núi lửa và á núi lửa). Tức là chỉ tìm được nước ngầm nguồn gốc sâu tại các họng núi lửa đã từng hoạt động. Chúng có thể phun trào lên mặt đất hoặc phun nghẹn. Các họng núi lửa này có thể nhô cao hơn mặt đất. Chìm sâu hơn mặt đất và bị phủ bởi các trầm tích đệ tứ. Với vùng cao nguyên đá thì còn đòi hỏi thêm một số điều kiện như kích thước núi lửa phải đủ lớn để dung nham lấp đầy các đứt gẫy, khe nứt. Không cho nước đã sinh thành không bị trôi xuống sâu.

Đây là lý do làm cho việc tìm  nước nói riêng, nước ngầm nói chung, cho vùng cao nguyên đá vôi khó hơn tìm khoáng sản quý hiếm.

Đặc trưng của các thân đất đá chứa nước ngầm nguồn gốc sâu là: các họng núi lửa dạng nón hoặc dạng trụ. Các cuống phễu và các trụ luôn cắm thẳng đứng, có đường kính từ vài mét đến vài chục mét. Chúng chính là giao tuyến của các đứt gẫy bị dung nham núi lửa phun lên lấp đầy. Phần loe lên của nón là kết quả của vụ bùng nổ núi lửa, giống hiệu ứng viên đạn bắn xuyên tường làm đầu ra bị loét rộng (Điều này làm nhiều người cho là đứt gẫy nằm nghiêng), các hang karst dưới mực nước ngầm.

Nước ngầm nguồn gốc sâu có lưu lượng vài trăm m3/ngày đêm, ổn định quanh năm và lâu dài, chất lượng dùng được cho sinh hoạt ít khi phải xử lý. Khi đã hiểu đúng bản chất của nước ngầm thì việc tìm ra chúng là không khó, nếu ở vùng đó có tồn tại. Trong đó, công tác địa chất để tìm các giao điểm  của các đứt gẫy kiến tạo và công tác địa vật lý là quyết định cho thắng lợi của việc thăm dò nước ngầm.

Những dấu hiệu địa chất, địa mạo cho việc đào giếng, ao hoặc khoan dễ cho gặp nước ngầm nguồn gốc sâu

Như trên đã nêu, đối với miền Trung, địa hình chủ yếu là đồi núi, các thung lũng ruộng cũng có lớp đất phủ không dày. Vì vậy khả năng lưu trữ nguồn nước mưa từ trên mặt đất ngấm xuống là không đáng kể. Hạn như hiện nay thì chắc không thể còn. Vì vậy phải tìm nguồn nước ngầm - nguồn gốc nội sinh từ các họng núi lửa cổ. Dấu hiệu để nhận biết các hang núi lửa cổ là:

ADQuảng cáo

Bom núi lửa: Đó là các bãi đá chồng, đá mồ côi (dân ta thường gọi). Chúng ta có thể đào giếng, ao hoặc khoan sát ngay bãi đá chồng hoặc tốt nhất vào giữa tâm bãi. Dấu hiệu này gặp nhiều ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa và nhiều vùng khác.

Các bãi đá ong: Đá ong thực chất là dăm, cuội dung nham núi lửa trẻ có thành phần bazơ-kiềm bị phong hóa tại chỗ trên mực nước ngầm. Bên dưới đá ong thường là đá cổ hơn hoặc cũng là dăm cuội dung nham núi lửa nhưng bị phong hóa dưới mực nước ngầm thành sét-kaolin chứa dăm, cuội cát, sỏi và khoáng vật quặng kim loại. Gặp được lớp này chắc chắn có nước, đào được càng dày lớp này thì lưu lượng nước càng lớn.

Với các vùng cao nguyên đất đỏ, việc gặp được các bãi sỏi ong (các hạt đất, đá màu đen, tròn cạnh) cũng là những dấu hiệu tốt cho đào giếng, ao tìm  nguồn nước ngầm nguồn gốc sâu.

Dấu hiệu địa mạo: Các thung lũng ruộng, các sông, suối, khe chủ yếu là do kết quả hoạt động của các đứt gẫy kiến tạo. Chúng tạo ra các đới dập vỡ mềm hơn để cho nước mưa xói mòn tạo thành các thung lũng, sông suối như ngày nay.

Trung tâm các bãi quặng lộ của sắt, mangan (ở xã Hòa Sơn – Ninh Thuận, Nghi Lâm - Nghệ An,…), bauxite (Đắk Nông, Hà Giang, Lạng Sơn,…) cũng là dấu hiệu trực tiếp để tìm ra họng núi lửa, nơi quặng từ đó chui lên và cũng là nơi cấp nước ngầm tốt nhất cho vùng.

Dấu hiệu và phương pháp địa vật lý: Trong hơn 30 năm nay chúng tôi dùng phương pháp thăm dò từ chính xác cao để xác định chính xác vị trí triển vọng nhất trong các họng núi lửa cổ, cho khoan thăm dò nước ngầm sau khi xác định được vị trí tương đối của các họng núi lửa có thể chứa nước theo lối điểm huyệt (bằng tổ hợp địa chất và địa mạo). Nhưng đến nay cách làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Chúng ta thường áp dụng các phương pháp thăm dò mặt cắt, đo sâu điện, v.v… Nhưng chính cách làm này ít mang lại hiệu quả đối với trung du và miền núi dù tốn kém hơn nhiều. Bởi vì các bài toán giải cho thăm dò điện là các lớp nằm ngang hoặc hơi nghiêng. Còn vật thể chứa nước của thực tế là dạng trụ cắm thẳng đứng.

Mọi Dự án và phương án thăm dò nước đều chỉ có giá trị khi tìm ra nguồn nước sử dụng được. Vì vậy, các nhà quản lý khi giao việc nên tính đến hiệu quả, đó là nguồn nước làm trọng. Có thể còn nhiều tranh cãi, nhưng chúng tôi đã thắng lợi đúng bằng lý thuyết tìm được nêu trên. Đưa ra công luận vấn đề này, chúng tôi muốn cư dân những vùng không có nước đỡ khổ sớm hơn, đồng thời Nhà nước và các địa phương chỉ phải chi tiền vào việc có ích cho dân.

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Một số giải pháp góp phần chống hạn với miền Trung, các vùng cao nguyên và miền núi cao
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO