Phạm vi và quy chế pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam

Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông| 19/08/2014 09:28

Quy chế pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa được xác định một cách cụ thể và với những nội dung khác nhau.

ADQuảng cáo

Để hiểu rõ tính chất và mức độ khác nhau đó, chúng ta hãy tìm hiểu các khái niệm pháp lý về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Trước hết, cần hiểu thế nào là chủ quyền quốc gia và chủ quyền quốc gia trên các vùng biển là gì? Như chúng ta đã biết, quốc gia là một thực thể cấu thành bởi 3 yếu tố: Dân cư, lãnh thổ và chính quyền có chủ quyền. Không có chủ quyền thì không thể tồn tại quốc gia theo đúng nghĩa của nó. Nói đến quốc gia là nói đến chủ quyền quốc gia. Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của quốc gia.

Chủ quyền quốc gia gồm 2 nội dung: Quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền tối cao về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia phải do quốc gia quyết định, các quốc gia khác, cũng như các tổ chức quốc tế không có quyền can thiệp vào, mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ quốc gia phải tuân thủ pháp luật của quốc gia nếu điều ước quốc tế mà quốc gia ký kết không có quy định khác.

Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của quốc gia thể hiện ở chỗ quốc gia có quyền:

* Tự quyết định mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của mình, quốc gia khác không có quyền can thiệp hoặc áp đặt; Không có một thế lực nào, cơ quan nào đứng trên quốc gia, có quyền đặt ra pháp luật bắt buộc quốc gia phải thực hiện.

* Quốc gia chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại, các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia ký kết hoặc tham gia, đồng thời, tôn trọng các tập quán quốc tế cũng như các điều ước quốc tế do quốc gia khác ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.

Chủ quyền quốc gia trên biển cũng bao hàm những nội dung cốt lõi nói trên. Tuy nhiên, lãnh thổ quốc gia nói trên các vùng biển không đồng nhất về tính chất và chế độ pháp lý. Vì vậy, trên từng phạm vi của từng vùng biển, quốc gia ven biển có quyền thực hiện và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.

Pháp luật là phương tiện để bảo vệ các quyền cơ bản đó (Theo quan điểm pháp luật quốc tế thì quyền chủ quyền có nguồn gốc chủ quyền lãnh thổ, trong khi quyền tài phán là hệ quả của chủ quyền và quyền chủ quyền, có tác dụng bổ trợ, tạo ra môi trường để thực hiện chủ quyền và quyền chủ quyền).

ADQuảng cáo

Mặc dù quyền tài phán gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ, nhưng nó cũng có thể thực hiện ở nơi mà quốc gia đó không có chủ quyền, như quyền tài phán có thể được áp dụng trên tàu thuyền, phương tiện treo cờ của quốc gia đó khi chúng đang hoạt động trong các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác. Như vậy, quyền tài phán theo nghĩa rộng bao gồm:

- Thẩm quyền đưa ra các quyết định, quy phạm.

- Thẩm quyền giám sát việc thực hiện.

- Thẩm quyền xét xử của tòa án đối với một lĩnh vực cụ thể: Theo nghĩa hẹp, đó là thẩm quyền pháp định của tòa án xét xử một người hay một việc. Sau đây là một số nội dung chủ yếu.

Chủ quyền đối với lãnh hải:

Lãnh hải của một quốc gia ven biển được coi như là lãnh thổ của quốc gia ven biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia của quốc gia ven biển. Nước ven biển có chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình; chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất dưới đáy của vùng này.

Tuyên bố của Chính phủ ta về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977 đã quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải” (Điều 1).

Tuy nhiên, do yêu cầu tính chất truyền thống của hàng hải quốc tế, luật pháp quốc tế trù định quyền của mọi loại tàu, thuyền của tất cả các quốc gia được đi qua không gây hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển với điều kiện không gây ảnh hưởng đến hòa bình, trật tự, an ninh và môi trường của quốc gia ven biển.

Trên thực tế, một số quốc gia yêu cầu tàu, thuyền nước ngoài phải xin phép hoặc thông báo trước mới được vào lãnh hải của mình, đặc biệt là đối với tàu chiến nước ngoài. Cần lưu ý là, quyền đi qua không gây hại không được áp dụng đối với vùng trời trên lãnh hải. Phương tiện bay nước ngoài muốn bay qua vùng trời trên lãnh hải của một nước ven biển phải xin phép nước ven biển đó.

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Phạm vi và quy chế pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO