Chuyên đề công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

20/12/2015 11:04

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NHIỆM KỲ 2010 - 2015

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Công tác xây dựng Đảng

1.1. Về chính trị, tư tưởng

Với nhiệm vụ đặt ra trong nhiệm kỳ 2010-2015, là tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, với phương châm chủ động, sáng tạo, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, sắc bén và tính thuyết phục của công tác tư tưởng. Đại hội khẳng định: công tác chính trị, tư tưởng luôn được coi trọng và tăng cường, từng bước được đổi mới về nội dung và hình thức, dần đi vào chiều sâu; góp phần tích cực đấu tranh ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong xã hội.

Công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh; không ngừng đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Quan tâm chỉ đạo việc tổ chức thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, dưới nhiều hình thức khác nhau: các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch và có các báo cáo chuyên đề, báo cáo sơ, tổng kết. Đặc biệt, đã triển khai thực hiện Đề tài khoa học cấp tỉnh “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở Đắk Nông: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục”, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; hạn chế được biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh ổn định; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, điều hành của chính quyền được giữ vững.

Công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng được tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến cơ sở, nhận thức của cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt nghị quyết được nâng lên. Từ năm 2011 - 2015, toàn tỉnh mở được 3.323 lớp, với 371.962 lượt người tham gia.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng được quan tâm. Nhiều tác phẩm có ý nghĩa lịch sử lớn được xuất bản, như: “Lịch sử phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912-1936)”; “Lịch sử Di tích cách mạng Nhà ngục Đắk Mil (1941-1943)”; “Lịch sử Căn cứ kháng chiến Nâm Nung”… góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục phát huy truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

1.2. Về tổ chức, xây dựng đảng

Trong báo cáo chính trị tại đại hội XI của Đảng bộ tỉnh đã khẳng định: Công tác tổ chức xây dựng đảng được quan tâm đúng mức, đồng bộ, liên tục đạt nhiều kết quả tích cực.Số lượng, chất lượng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đã tập trung kiện toàn, củng cố cấp ủy, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là các tổ chức cơ sở đảng yếu kém đã được thu hẹp đáng kể. Phần lớn các tổ chức cơ sở đảng hiện nay đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị đề ra. Công tác đánh giá, phân loại, biểu dương, khen thưởng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm được thực hiện ngày càng đi vào nề nếp, đúng quy trình, nhất là qua kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Các tổ chức đảng cơ bản đã có sự nhìn nhận, đánh giá một cách chặt chẽ, khách quan, trung thực, phản ánh đúng hơn thực trạng và không chạy theo thành tích trong phân tích, phân loại.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng có chuyển biến tích cực: số lượng, chất lượng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, có 77,2% tổ chức cơ sở đảng có phát triển đảng viên; 95,3% chi bộ trực thuộc Đảng bộ xã, phường, thị trấn có kết nạp đảng viên; 99,1% thôn, buôn, bon có chi bộ là đảng viên tại chỗ; công tác đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ngày càng chặt chẽ, theo hướng lấy chất lượng là chính; hàng năm có 58,06% tổ chức cơ sở đảng được công nhận trong sạch - vững mạnh.

Hiện nay, toàn đảng bộ tỉnh có 13 tổ chức đảng trực thuộc (08 đảng bộ huyện, thị xã; 03 đảng bộ lực lượng vũ trang; 01 Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh và 01 Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh, với 21.659 đảng viên, sinh hoạt trong 390 tổ chức cơ sở đảng (giảm 55 tổ chức so với năm 2010), trong đó 163 đảng bộ cơ sở, 227 chi bộ cơ sở.

Công tác phát triển đảng viên: được coi trọng và đi vào nền nếp, chú trọng phát triển đảng viên ở những thôn, bon, bản còn ít đảng viên hoặc chưa có đảng viên là người tại chỗ; phát triển đảng viên là nữ, là người dân tộc thiểu số và người có đạo; số đảng viên được kết nạp qua các năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước; Trong nhiệm kỳ kết nạp được 6.295 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 21.300 đồng chí; “xóa” được 18 thôn, bản “trắng” đảng viên là người tại chỗ. Công tác đảng viên đã đi vào nề nếp; sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nội dung và tính chất sinh hoạt được nhiều chi bộ đổi mới, từng bước có chuyển biến tích cực.

Công tác cán bộ: Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, đổi mới về nội dung, cách làm; chất lượng sát với tiêu chuẩn của từng chức danh; quy trình các bước tiến hành khá chặt chẽ, đảm bảo tính dân chủ, công khai, tạo được sự thống nhất cao trong nội bộ. Chú trọng thực hiện việc rà soát nguồn, nhận xét, đánh giá cán bộ quy hoạch; trong đó đặc biệt quan tâm đến yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực. Quan tâm quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, quy hoạch nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản và có triển vọng phát triển. Chú trọng đào tạo thực tiễn thông qua luân chuyển cán bộ; khuyến khích tự học, nâng cao trình độ nhằm tự chuẩn hoá; thực hiện tốt cơ cấu ba độ tuổi, đầu tư chọn lựa và đào tạo cán bộ nguồn từ cán bộ trẻ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh cơ bản đáp ứng được nhu cầu, nhất là cấp cơ sở. Việc đánh giá, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ thực hiện đúng quy trình, nguyên tắc, quy định phân cấp quản lý. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ được quan tâm, từng bước đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá; trong nhiệm kỳ đã cử đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị 420 đồng chí (trong đó hệ tập trung 114 đồng chí); trung cấp lý luận chính trị 687 đồng chí; đào tạo sau đại học 217 đồng chí và cử nhiều lượt cán bộ, công chức tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chương trình quản lý nhà nước và các nghiệp vụ công tác khác, tạo nguồn được hơn 300 cán bộ trẻ trong toàn tỉnh.

Công tác điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, sắp xếp cán bộ được các cấp ủy đảng chỉ đạo thực hiện một cách dân chủ, công khai, đúng quy trình; bảo đảm tiêu chuẩn chức danh cán bộ; giới thiệu nhiều cán bộ trẻ có năng lực, uy tín bổ nhiệm giữ chức danh lãnh đạo quản lý nhằm tạo nguồn cho cán bộ lãnh đạo của tỉnh; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ người dân tộc thiểu số đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị tăng lên đáng kể. Chính sách cán bộ được thực hiện nghiêm túc; đã ban hành nhiều chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là các chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chỉ đạo chặt chẽ, thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh làm rõ vấn đề chính trị phục vụ cho công tác cán bộ và công tác phát triển đảng viên; chú trọng thực hiện chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, gắn với xây dựng thôn, buôn, bon, tổ dân phố vững mạnh toàn diện; do đó, hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có những chuyển biến mới.

1.3. Công tác kiểm tra

Trong 5 năm qua, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng được triển khai khá toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, góp phần tích cực nâng cao chất lượng công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị, giáo dục, phòng ngừa hạn chế vi phạm. Công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Số lượng cuộc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; nội dung kiểm tra, giám sát đã tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Chú trọng kiểm tra, giám sát cấp ủy viên, người đứng đầu, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý; quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả cao hơn.

Trong nhiệm kỳ, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 1.290 tổ chức đảng và 10.763 đảng viên theo Điều 30 Điều lệ Đảng; kiểm tra 667 tổ chức đảng có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; kiểm tra tài chính Đảng đối với 539 tổ chức; kiểm tra 49 tổ chức đảng và 715 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố cáo 01 tổ chức đảng và 133 đảng viên; thi hành kỷ luật 13 tổ chức đảng và 753 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 18 đảng viên; giám sát 854 tổ chức đảng và 1.779 đảng viên… Qua kiểm tra, giám sát đã giúp cấp uỷ đánh giá đúng tình hình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế; giáo dục, phòng ngừa vi phạm. Mặt khác, các cấp ủy đảng cũng đã chỉ đạo xem xét làm rõ các vụ việc, xử lý nghiêm minh, chính xác những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm, góp phần quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên.

1.4. Công tác dân vận của Đảng

Công tác dân vận có bước đổi mới về nội dung, phương thức; đề cao dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Cơ quan làm công tác dân vận các cấp có nhiều cách làm hay, sáng tạo và mang lại hiệu quả thiết thực. Mô hình “dân vận khéo” thực hiện đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

Các tổ chức trong hệ thống chính trị tăng cường phối hợp làm công tác dân vận, nhất là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe và xử lý kịp thời những phát sinh ở các địa bàn trọng điểm, tích cực tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, khuyến khích, động viên nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ổn định và từng bước nâng cao đời sống, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Động viên nhân dân tham gia  tuyên truyền các văn bản luật, dưới luật, tuyên truyền Hiến pháp năm 2013. Công tác truyên truyền vận động quần chúng được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, thực hiện đồng bộ, thường xuyên đưa tin mô hình dân vận khéo trên trên Đài PT-TH, Báo Đăk Nông,…

Vận động nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết cùng nhau thực hiện tốt các phong trào thi đua do chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể phát động; giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đấu tranh ngăn chặn hoạt động của tổ chức Fulrô và hoạt động “Phỉ”; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, vận động nhân dân đóng góp hàng chục ngàn m­2 đất, hàng trăm ngàn ngày công và trên 100 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới.

Các tổ chức đoàn, hội cơ sở không ngừng động viên nhân dân tích cực tham gia, tỷ lệ tập hợp, kết nạp đoàn viên, hội viên tăng bình quân hàng năm từ 5 đến 10%, hiện nay, trong toàn tỉnh đã tập hợp 68% quần chúng vào tổ chức đoàn, hội; có 20 đội công tác vận động quần chúng với 87 thành viên và 779 tổ dân vận.

1.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị:

Với nhiệm vụ đặt ra cho cả nhiệm kỳ: Rà soát, sửa đổi và thực hiện đồng bộ các quy chế, quy định, xác định rõ chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ lãnh đạo và quan hệ công tác giữa cấp ủy đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn với cơ quan chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở các cấp các ngành. Đánh giá tình hình 5 năm qua, Báo cáo chính trị Đại hội XI khẳng định:  Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đảm bảo nguyên tắc, bám sát chức năng nhiệm vụ, quy chế và có nhiều đổi mới, nề nếp và hiệu quả. Phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của các cơ quan nhà nước, tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, khắc phục những biểu hiện Đảng bao biện làm thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng (thông qua việc thực hiện quy chế phối hợp). Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, nhân rộng điển hình, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; các cấp uỷ đã xây dựng chương trình công tác và phân công, phân nhiệm cụ thể cho các tổ chức và cá nhân, tăng cường khả năng hoạt động của cấp ủy và cán bộ, đảng viên, thực hiện ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân.

2. Về xây dựng chính quyền

Chất lượng hoạt động của HĐND các cấp ngày càng được nâng lên, cơ quan hành chính Nhà nước đã được củng cố, kiện toàn.

Từ đầu nhiệm kỳ, với nhiệm vụ tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, đến nay, HĐND các cấp đã từng bước được kiện toàn về tổ chức, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, phát huy tốt vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Chất lượng các kỳ họp ngày càng được nâng lên, các nghị quyết của HĐND ban hành đã cụ thể hóa được chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tình hình thực tế ở địa phương; tạo cơ sở pháp lý để quản lý, điều hành, khai thác tiềm năng, thế mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác giám sát, khảo sát được tăng cường; có trọng tâm, trọng điểm; khắc phục kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Công tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri; giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân được duy trì thường xuyên và đạt được kết quả tích cực. Đã có sự phân định rõ hơn giữa chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Đẩy mạnh phân công, phân cấp cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.

Từ năm 2011 - 2015, HĐND tỉnh khóa II, nhiệm kỳ 2011 - 2016 đã tổ chức được 12 kỳ họp. Mỗi kỳ họp được các cơ quan có trách nhiệm tham gia chuẩn bị tốt, bảo đảm cho toàn bộ các hoạt động của HĐND trong kỳ họp, chương trình, nội dung kỳ họp được nghiên cứu, cải tiến phù hợp với các quy định của Nhà nước; tổ chức các đợt tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND tỉnh, hầu hết các đại biểu đều tham gia tiếp xúc cử tri đầy đủ với ý thức trách nhiệm cao.

Công tác cải cách hành chính: Thực hiện nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ 2010-2015 là: đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện khoán biên chế và kinh phí ở tất cả các cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện, đã góp phần cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và nhân dân, nhất là ở cơ sở. Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) của tỉnh được cải thiện đáng kể. Thể chế quản lý Nhà nước được chú trọng xây dựng, hoàn thiện, bảo đảm phù hợp với yêu cầu của tỉnh; cải cách thủ tục hành chính được triển khai tích cực; hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa liên thông ngày càng đi vào nề nếp; việc công khai minh bạch thủ tục hành chính đã rút ngắn thời gian giải quyết công việc, giảm thiểu khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Những cố gắng đó đã góp phần cải thiện chỉ số cải cách hành chính của tỉnh từ vị trí 45/63 (năm 2012) lên vị trí 36/63 tỉnh, thành vào cuối năm 2014. Tổ chức bộ máy hành chính các cấp được điều chỉnh, sắp xếp theo đúng quy định, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và cơ chế khoán biên chế, cơ chế tự chủ về tài chính đã giúp cho các cơ quan, đơn vị nâng cao ý thức tiết kiệm, năng suất và hiệu quả công việc.

3. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng được tăng cường, dân chủ được phát huy; tập hợp, đoàn kết rộng rãi và động viên được các tầng lớp nhân dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các hoạt động xã hội; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên đã có nhiều đổi mới trong công tác tập hợp, đoàn kết nhân dân; bám sát cơ sở, phát huy tốt vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo, trí thức, doanh nhân. Phối hợp tốt với các cấp, các ngành trong việc vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ vững mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội; đã kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, chú trọng hướng về cơ sở.

Tiếp tục phối hợp các ngành, các địa phương tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng gia đình, thôn, bon, khối phố văn hóa, triển khai hiệu quả các phong trào “Vì người nghèo”, Phong trào “Nông dân sản xuất giỏi”,“Phụ nữ đảm việc nước, giỏi việc nhà”, “Thanh niên tình nguyện”, “Thanh niên lập nghiệp”, Phong trào nêu gương “Bộ đội Cụ Hồ”…; phát huy tinh thần tự quản của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, tham gia xây dựng Đảng và chính quyền.

II. MỘT SỐ HẠN CHẾ, TỒN TẠI

1. Công tác tuyên truyền hiệu quả chưa cao; việc nắm bắt và định hướng tư tưởng xã hội chưa kịp thời; việc đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch còn hạn chế. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chất lượng nội dung sinh hoạt chi bộ chưa bảo đảm theo quy định; công tác kết nạp đảng ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ ở một số địa phương, đơn vị còn hạn chế, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, trẻ còn thấp. Việc nhận diện và chỉ đạo, xử lý vấn đề chính trị hiện nay còn lúng túng.

2. Công tác kiểm tra, giám sát theo chương trình, kế hoạch còn chưa sát thực tế, một số nơi thiếu chủ động phát hiện, chưa kịp thời kiểm tra khi tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Việc khắc phục hậu quả, khuyết điểm sau kiểm tra còn chậm. Chưa làm tốt công tác truyền thông kết quả kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật để nâng cao hiệu quả giáo dục, ngăn ngừa vi phạm của cán bộ, đảng viên. Việc xây dựng, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận; dự báo, nắm bắt diễn biến, tâm tư nguyện vọng, bức xúc của các tầng lớp nhân dân ở một số cấp ủy, chính quyền có lúc chưa kịp thời; việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận chưa đáp ứng yêu cầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ và quá trình đổi mới phát triển kinh tế - xã hội.

3. Hoạt động giám sát của HĐND chưa toàn diện; hiệu lực, hiệu quả trong giám sát chưa cao; chất lượng thẩm tra còn hạn chế; chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn chưa đáp ứng yêu cầu; việc chỉ đạo giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri hiệu quả chưa cao. Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên về cải cách hành chính chưa sâu sắc. Công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thật chặt chẽ và hiệu quả, có nơi còn xem nhẹ. Việc tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể ở một số địa phương còn yếu.

4. Nhận thức của một số cấp uỷ đảng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa sâu sắc; còn coi nhẹ công tác vận động quần chúng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức thành viên tham gia hoạt động giám sát; nhiều nơi còn né tránh, ngại va chạm với các cơ quan nhà nước. Công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân còn hạn chế.

* Nguyên nhân tồn tại:

Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, tính chất quan trọng trong  việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, còn quan liêu và chủ quan trong việc đánh giá tình hình chung ở nông thôn, nhất là về tư tưởng, chính trị và các mục tiêu kinh tế - xã hội; chưa hoàn thiện hệ thống quy chế hoạt động cho các tổ chức chính quyền, đoàn thể của đơn vị mình, mối quan hệ giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở chưa chặt chẽ, đồng bộ; chưa huy động tối đa trí tuệ của nhân dân tham gia ý kiến vào công tác xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể và đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở; đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nói chung còn yếu; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Một số cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu trong công tác và lối sống sinh hoạt, có biểu hiện cơ hội, cục bộ ngành, địa phương, chủ nghĩa cá nhân, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng; chính sách, chế độ đối với cán bộ tuy có cải thiện nhưng chưa thực sự động viên, khuyến khích và thu hút được cán bộ có năng lực, nhiệt tình về công tác ở cơ sở; sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở còn thiếu sâu sát, chưa quan tâm đến công tác chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Cơ sở hạ tầng, điều kiện giao thông đi lại, phương tiện liên lạc, làm việc và sinh hoạt văn hóa của một số cơ sở còn khó khăn, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số thôn, buôn, bon, tổ dân phố chưa có nhà văn hóa, không có nơi để sinh hoạt chi bộ, họp dân hoặc tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa mang tính chất cộng đồng, kinh phí hoạt động của các tổ chức đoàn thể còn gặp nhiều khó khăn.

Phần thứ hai

NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHIỆM KỲ 2015 - 2020

I. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát Đại hội đã đưa ra cho cả nhiệm kỳ:Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết; khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức; phát huy tiềm năng, lợi thế để đến năm 2020 đưa Đắk Nông thoát ra khỏi tình trạng của một tỉnh nghèo, chưa phát triển”.

Mục tiêu về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

- Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. Tạo ra sự đột phá về thể chế hóa, đảm bảo cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có chất lượng, bộ máy tinh gọn; cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương thực thi pháp luật một cách năng động phù hợp với tình hình của tỉnh.

- Đẩy mạnh chương trình phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ và đi vào chiều sâu, nâng cao trình độ dân trí, nguồn nhân lực xã hội tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân phát triển năng lực, có niềm tin, yên tâm hết lòng cống hiến; tâm huyết phấn đấu xây dựng Đắk Nông phát triển toàn diện, nhanh và bền vững.

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1. Công tác chính trị tư tưởng

Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng; tập trung đào tạo, giáo dục cơ bản trong đảng và hệ thống chính trị; đa dạng hóa nội dung, hình thức, biện pháp sinh động, tạo sự thống nhất cao về đường lối, chủ trương và sự đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết, an dân.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạnh cho cán bộ, đảng viên:

Chú trọng việc quán triệt, học tập và thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tăng cường công tác giáo dục lý luận; nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương pháp nghiên cứu, học tập, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kiến thức, lý tưởng cách mạng nhằm góp phần bồi đắp nhận thức và tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong tình hình mới.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng một cách thường xuyên, nề nếp trong sinh hoạt chi bộ; sinh hoạt định kỳ của cơ quan, đơn vị. Chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực đẩy lùi tiêu cực.

- Chủ động định hướng thông tin, tuyên truyền; phòng chống “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội: quản lý có hiệu quả hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động chống âm mưu “diễn biến hòa bình”; kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; ngăn chặn việc “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Nâng cao hiệu quả công tác sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ cũng như sưu tầm, nghiên cứu các đề tài lịch sử truyền thống nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

2. Công tác tổ chức, cán bộ

Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.  Coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, phát huy dân chủ, đoàn kết, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng.

Đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; đổi mới và nâng cao chất lượng đánh giá phân loại tổ chức đảng, đảng viên gắn với kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Phấn đấu trong nhiệm kỳ có trên 80% tổ chức cơ sở đảng, 100% chi bộ trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn có kết nạp đảng viên. Hằng năm có trên 60% số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh và có trên 90% số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.

Tiếp tục thực hiện việc đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị gắn với xây dựng thôn, buôn, bon, tổ dân phố vững mạnh toàn diện; gắn việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCS đảng với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp. Tập trung củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng yếu kém, coi trọng chất lượng kết nạp đảng viên; phát triển đảng viên ở địa bàn nông thôn, vùng đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc thiểu số; trong đoàn viên thanh niên, cán bộ khoa học kỹ thuật, trí thức văn nghệ sỹ; thí điểm kết nạp đảng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân. Thường xuyên rà soát, kiện toàn bộ máy tổ chức đảng và hệ thống chính trị phù hợp, bảo đảm bộ máy tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả.

Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chủ động tạo nguồn cán bộ cơ sở, trong đó đặc biệt quan tâm cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; từng bước khắc phục tình trạng hụt hẫng cán bộ; thực hiện tiêu chuẩn hoá, phấn đấu đến năm 2020 có trên 90% cán bộ đạt chuẩn.

Vận dụng thực hiện các quy định, chính sách phù hợp để tuyển chọn, thu hút và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Tạo điều kiện để cán bộ từ mọi nguồn đến cư trú ổn định ở Đắk Nông yên tâm công tác, tâm huyết, tận tụy cống hiến. Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ ở các cấp theo quy hoạch. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới; chú ý vấn đề chính trị hiện nay và chính sách sử dụng cán bộ có vấn đề lịch sử chính trị. Kiên quyết xử lý cán bộ, công chức, đảng viên thoái hóa biến chất, cơ hội chính trị, xa rời lý tưởng, cục bộ bè phái; gây mất đoàn kết nội bộ.

3. Công tác kiểm tra, giám sát

Coi trọng vai trò, vị trí; phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành; ngăn chặn vi phạm, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh. Kiên quyết xử lý nghiêm, đẩy lùi thoái hóa, tiêu cực, tham nhũng; củng cố niềm tin trong đảng và nhân dân. Nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, đồng thời nâng cao trách nhiệm, chất lượng hoạt động của Ủy ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp trong việc lãnh đạo thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt hơn việc tổng kết, đánh giá, kết luận tình hình vi phạm kỷ luật, pháp luật của cán bộ, đảng viên ở các cấp ủy, đề ra các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo sát thực tiễn.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng trên các lĩnh vực, như: chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải cách hành chính và cải cách tư pháp; công tác tổ chức và cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo; đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý tài chính gắn với kết quả kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Tăng cường kiểm tra, giám sát việc xây dựng, thực hiện quy chế làm việc; việc chấp hành các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; việc phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các lĩnh vực nhạy cảm dễ gây nhiều bức xúc trong xã hội. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác điều tra, thanh tra, kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.

4. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn  kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống các tổ chức trực tiếp làm  công tác vận động quần chúng của Đảng. Nắm bắt và phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hành quy chế dân chủ cơ sở, tin và dựa vào dân, hỏi ý kiến nhân dân trong chủ trương, quy hoạch, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đơn vị; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tập hợp, giáo dục, vận động quần chúng; phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải; tạo môi trường và điều kiện để nhân dân phát huy tính tích cực, sáng tạo.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác dân vận theo hướng phát huy tính tự chủ, năng động. Củng cố, kiện toàn Ban dân vận các cấp, có cơ chế thu hút cán bộ có năng lực, uy tín và kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, bố trí sử dụng cán bộ phù hợp, nhất là cán bộ trẻ có năng lực.

Phát huy dân chủ và tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy dân chủ trong cán bộ, đảng viên, nhân dân. Xây dựng các hình thức tổ chức và triển khai cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; gắn liền thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.

Động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội; tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu của những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo…

5. Về xây dựng chính quyền

Khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của HĐND; tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND các cấp: Đổi mới, nâng cao chất lượng các kỳ họp, các hoạt động giám sát của HĐND nhằm đảm bảo việc chấp hành nghiêm túc pháp luật ở địa phương; đảm bảo các quyền, nghĩa vụ của tổ chức và công dân; chú trọng nâng cao chất lượng báo cáo của HĐND về lập và quyết toán ngân sách hằng năm, về thi hành pháp luật ở địa phương, về xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội của tỉnh. Đổi mới công tác tiếp xúc cử tri, tiếp dân; kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh việc giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của các cơ quan chức năng.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động của UBND các cấp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và các quy định của pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả: Hoàn chỉnh việc xác định vị trí việc làm, tinh giản bộ máy, chuẩn hóa cán bộ, công chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ quan trực thuộc UBND các cấp. Chú trọng củng cố hệ thống chính quyền cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn vững về tư tưởng chính trị; chuẩn mực về đạo đức, tác phong; trình độ chuyên môn. Bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức phù hợp với trình độ, năng lực và sở trường công tác nhằm phát huy tối đa trí tuệ, năng lực làm việc của cán bộ, công chức. Nâng cao chất lượng hoạt động công tác thanh tra, kịp thời chấn chỉnh, tạo nề nếp, quy củ chấp hành pháp luật. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tính pháp quyền trong quản lý xã hội; khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý; nâng cao trách nhiệm công vụ, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; lắng nghe quần chúng nhân dân, mở rộng dân chủ tạo sự đồng thuận rộng rãi về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy hoạt động giám sát, phản biện của MTTQ và đoàn thể, công khai dân chủ để nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chính sách; xây dựng Đảng, chính quyền và trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội.

Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cải cách hành chính: Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật các cấp; mở rộng cơ chế lấy ý kiến tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân theo quy định của pháp luật đối với các văn bản trước khi ban hành. Đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tập trung vào những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp; thực hiện tốt công tác thanh tra công vụ, kiểm tra, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước các cấp; hoàn thiện quy chế phối hợp, phân cấp quản lý.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách thu hút nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh; xử lý nghiêm đối với những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, có hành vi nhũng nhiễu, hách dịch trong thi hành công vụ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế, tài chính; công khai, minh bạch tài chính tại các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp; tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

6. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Chăm lo xây dựng MTTQ và đoàn thể vững mạnh, hoạt động thiết thực, gắn bó mật thiết với đoàn viên, hội viên. Đa dạng hóa hình thức và phương pháp hoạt động đi vào cuộc sống, thực hành dân chủ, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần sáng tạo, năng động của nhân dân; động viên hỗ trợ và cùng các tầng lớp nhân dân triển khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt hiệu quả thiết thực. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường hữu nghị, đoàn kết quốc tế. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đưa các phong trào thi đua yêu nước đi vào chiều sâu. Xây dựng nhiều mô hình mới trong kinh tế; công tác xã hội, nhân đạo - từ thiện; xây dựng xã hội ai cũng muốn làm “việc tử tế”.

Thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Phát huy dân chủ, tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tăng cường tiếp dân, đối thoại. Xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy tinh gọn, chất lượng; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quần chúng có kỹ năng, tâm huyết. Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ không chuyên trách và lực lượng cộng tác viên, người tiêu biểu, có uy tín. Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách. Xây dựng đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ lớn mạnh. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể các cấp theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, lấy đoàn viên, hội viên làm trung tâm, lấy lợi ích thiết thân, chính đáng làm động lực và chất kết dính; quan tâm từng người, lo từng nhà; phát triển gắn bó và hài hòa cá nhân, gia đình, đoàn thể và xã hội.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Chuyên đề công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO