Kết quả trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri của các Bộ, ngành Trung ương

01/11/2016 09:59

Để thông báo kết quả trả lời các ý kiến kiến nghị của cử tri tại các đợt tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp Quốc hội, Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông tổng hợp kết quả trả lời của các Bộ, ngành Trung ương như sau:

Cử tri kiến nghị: Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các luật ngay khi luật có hiệu lực để sớm đưa luật vào cuộc sống; vì hiện nay nhiều luật có hiệu lực đã lâu nhưng thiếu Nghị định, Thông tư hướng dẫn ví dụ như luật Xây dựng.

Bộ Xây dựng trả lời như sau: Để thực hiện luật Xây dựng, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ soạn thảo trình Chính phủ ban hành các Nghị định quy định và hướng dẫn thực hiện luật Xây dựng. Do luật Xây dựng có nhiều nội dung phải thống nhất với các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành và các hội nghề nghiệp; Thông tư về quản lý dự án đầu tư xây dựng phải thống nhất với các Bộ, ngành và địa phương. Trong tháng 6/2016, Bộ Xây dựng sẽ ban hành các Thông tư còn lại để hướng dẫn thực hiện luật Xây dựng.

Trong quá trình chờ ban hành các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thực hiện luật Xây dựng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã ban hành văn bản số 3482/BXD-HĐXD ngày 31/12/2014 về việc thực hiện luật Xây dựng số 50/2014/QH13 nhằm bảo đảm các hoạt động đầu tư xây dựng không bị ách tắc, theo nguyên tắc những nội dung nào đã được quy định cụ thể trong luật Xây dựng thì phải thực hiện theo luật, còn những nội dung nào cần phải có hướng dẫn của Nghị định và Thông tư nhưng chưa có Nghị định và Thông tư thì được thực hiện theo các Nghị định và Thông tư hướng dẫn luật Xây dựng 2003 đến khi các Nghị định và Thông tư mới ban hành có hiệu lực.

Cử tri kiến nghị: Cử tri cho rằng, mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường thế giới, nguyên nhân là do mặt hàng này không có thương hiệu, chất lượng kém. Đề nghị các cơ quan liên quan sớm xây dựng thương hiệu các mặt hàng nông sản Việt Nam để quảng bá trên thị trường; đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến thương mại tạo đầu ra cho nông sản, thủy sản.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời như sau:

Nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, các mặt hàng nông sản chủ lực như gạo, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, cao su, thủy sản… luôn nằm trong nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế nông sản của ta mới chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị gia tăng chưa cao và hầu hết chưa có thương hiệu.

Để khắc phục tình trạng trên, đồng thời nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững, Bộ Nông nghiệp & PTNT đang tích cực triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu, trong đó có các giải pháp về xây dựng thương hiệu quốc gia cho các mặt hàng nông lâm thủy sản chủ lực và xúc tiến thương mại mở rộng thị trường. Cụ thể:

1. Về xây dựng thương hiệu

Bộ Nông nghiệp & PTNT đã xây dựng Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 21/5/2016); Trong năm 2016, sẽ tập trung xây dựng logo thương hiệu gạo Việt Nam; xây dựng một số tiêu chuẩn (gạo thơm, gạo trắng) và yêu cầu về kỹ thuật quy trình xay xát bảo quản thóc, gạo… để có căn cứ pháp lý xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.

Bộ Nông nghiệp & PTNT đang tiếp tục xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng chủ lực khác như cà phê, hồ tiêu, cá tra…

2. Về xúc tiến thương mại

Bộ Nông nghiệp & PTNT đã triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá, phát triển thị trường cho các mặt hàng nông lâm thủy sản, bao gồm: thông tin tuyên truyền, tháo gỡ rào cản, vướng mắc về thị trường xuất khẩu, hỗ trợ tổ chức kết nối cung cầu, tìm kiếm thị trường đầu ra; liên kết, kết nối để tìm kiếm cơ hội đầu tư, hợp tác liên kết sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm… Cụ thể, năm 2016 công tác xúc tiến thương mại tập trung vào các hoạt động sau:

- Kết nối cung cầu giữa các nhà sản xuất và phân phối sản phẩm: tổ chức các Hội thảo kết nối doanh nghiệp để liên kết đầu tư, sản xuất, cung ứng, phân phối và tiêu thụ như Hội thảo về sản phẩm hữu cơ đã tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh và đang tiếp tục xúc tiến chuỗi hoạt động khác về sản phẩm nông nghiệp an toàn tại Đồng Nai, Tây Ninh và Hà Nội...

- Hội chợ triển lãm quảng bá nông lâm thủy sản: Tổ chức thường niên Hội chợ Triển lãm Nông nghiệp Quốc tế Agroviet (chủ đề năm 2016 là “Sản phẩm nông nghiệp bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm”) và Hội chợ làng nghề giới thiệu các sản phẩm truyền thống tiêu biểu. Ngoài ra, năm 2016 còn tổ chức chuỗi Tuần lễ giới thiệu “Nông sản an toàn”, Phiên chợ nông sản thực phẩm an toàn…

- Tháo gỡ vướng mắc rào cản mở rộng thị trường: làm việc với các cơ quan chức năng nước bạn để giải quyết vướng mắc về thị trường đầu ra như: cá tra tại thị trường Hoa Kỳ, thủy sản tại EU, Brazil…; Mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm nông lâm thủy sản tại thị trường châu Phi, sản phẩm chè tại thị trường Hoa Kỳ;

- Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng: thông tin tuyên truyền, chỉ đạo, điều hành tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông lâm thủy sản Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng (Đài Truyền hình Việt Nam – kênh VTV1, Báo Nông nghiệp Việt Nam).

Cử tri kiến nghị: Tình trạng mất mùa, giá sản phẩm nông nghiệp giảm, sản lượng tồn đọng luôn là nỗi lo, là gánh nặng của người nông dân. Cử tri mong rằng, Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan tích cực tìm giải pháp khả thi, đinh hướng sản xuất, tăng cường hiệu quả việc liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân), nhằm tháo gỡ khó khăn cho người nông dân để họ có cuộc sống ổn định, có động lực giữ đất sản xuất nông nghiệp để làm giàu cho bản thân, phát triển nền nông nghiệp nước nhà và làm giàu cho đất nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời như sau:

Để khắc phục tình trạng mất mùa, giá sản phẩm nông nghiệp giảm, sản lượng tồn đọng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó có định hướng hoàn thiện thể chế cho phát triển nông nghiệp theo định hướng thị trường; đổi mới và phát triển hệ thống quản lý và hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh; phát triển nông nghiệp hướng tới thực hiện các mục tiêu ưu tiên về phúc lợi cho nông dân và người tiêu dùng; phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, miền.

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang nghiên cứu dự thảo để trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản trong sản xuất nông nghiệp nhằm tăng cường liên kết sản xuất trong nông nghiệp, tăng sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, đưa ra những chính sách nhằm hỗ trợ các đối tượng tham gia vào liên kết.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri cho rằng giá dịch vụ khám chữa bệnh như hiện nay quá cao so với thu nhập của người nông dân, trong khi đó lại còn tăng 30% với lý do nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, nhưng thực tế chất lượng tăng hay không thì chưa có tiêu chí nào để đánh giá. Đề nghị các Bộ, ngành cần nghiên cứu để có điều chỉnh cho phù hợp; xem xét lại định mức chi trả cho sát thực tế và khả năng chi trả của người bệnh. Đồng thời, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ y bác sĩ cho các bệnh viện tuyến dưới để giảm quá tải đối với các bệnh viện tuyến trên”.

Bộ Y tế trả lời như sau:

Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã chủ trương đẩy mạnh cải cách tài chính công, đặc biệt là chuyển đổi cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế theo hướng (I) giao quyền tự chủ cho các đơn vị, (II) chuyển phần ngân sách cấp trực tiếp cho các bệnh viện sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế.

Thực hiện chủ trương này, giá dịch vụ y tế cần phải được tính đúng, tính đủ và thực hiện theo lộ trình quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ. Cụ thể: đến năm 2016, trong giá dịch vụ cần phải tính đủ chi phí trực tiếp và tiền lương, đến năm 2018 tính đủ chi phí trực tiếp, tiền lương, chi phí quản lý và đến năm 2020, tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định.

Thời gian vừa qua, giá dịch vụ y tế mới chỉ được tính một phần các chi phí trực tiếp; theo lộ trình thì năm 2016, sẽ tính thêm tiền lương trong giá dịch vụ y tế, nên mức sẽ có tăng so với giá trước đây. Tuy nhiên, việc thực hiện mức giá mới sẽ có lợi cho khoảng 77% dân số đã tham gia BHYT, vì được BHYT chi trả, người bệnh không phải trả thêm hoặc phải tự mua một số loại thuốc, vật tư như trước đây khi những yếu tố này chưa tính vào trong giá. Mức giá mới này cũng không ảnh hưởng đến người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào dân tộc sinh sống ở vùng kinh tế xã hội khó khăn, người dân sinh sống ở các xã đảo, huyện đảo, xã đặc biệt khó khăn và người cận nghèo vì những nhóm đối tượng này đã được Nhà nước mua hoặc hỗ trợ mua thẻ BHYT, khi họ đi khám, chữa bệnh thì theo quy định họ được BHYT thanh toán.

Để người dân không lâm vào tình trạng không có khả năng chi trả chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau, Quốc hội đã ban hành luật BHYT, trong đó có yêu cầu BHYT là bắt buộc, nghĩa là mọi người dân đều phải tham gia BHYT, để khi đau ốm họ sẽ được BHYT chi trả chi phí. Để thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho những người thuộc diện chính sách, nghèo, khó khăn,…, đặc biệt, Chính phủ cũng đã có chính sách hỗ trợ cho người làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT với mức hỗ trợ tối thiểu 30%, khuyến khích các địa phương sử dụng ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ thêm cho người dân tham gia BHYT, khi tham gia cả Hộ gia đình sẽ được giảm mức đóng. Đồng thời, Chính phủ sẽ dần chuyển phần ngân sách đang cấp cho các bệnh viện hiện nay sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT thông qua việc tăng đối tượng được hỗ trợ BHYT hoặc tăng mức hỗ trợ để người dân có điều kiện tham gia BHYT.

Trong những năm vừa qua, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt một số Chương trình, Đề án đầu tư từ các nguồn vốn ngân sách nhà nước, Trái phiếu Chính phủ, ODA,...(Đề án 47, Đề án 930, Đề án 362, Đề án 317, chương trình mục tiêu quốc gia y tế dân số, Đề án 125, các dự án ODA hỗ trợ y tế địa phương,..) để xây dựng mới, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế cho các cơ sở y tế từ tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện nhằm nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho cả hệ thống, dần dần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện đề án giảm tải bệnh viện theo Quyết định số 92/QĐ-TTg của Thủ tướng, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế.

Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục trình Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai tiếp các Đề án, chương trình, dự án đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, Trái phiếu Chính phủ, ODA nhằm tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nhất là trang thiết bị y tế hiện đại cho các cơ sở y tế để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong thời gian tới.

Cử tri kiến nghị:  “Nhiều ý kiến cử tri tiếp tục đề nghị không phân tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT để tạo thuận lợi cho nhân dân”.

Bộ Y tế trả lời như sau:

Việc phân tuyến chuyên môn, kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh đã được Bộ Y tế quy định theo 4 cấp, dựa trên địa giới hành chính, phạm vi quản lý, khả năng chuyên môn và thực trạng về cơ sở vật chất. Việc đăng ký cơ sở khám chữa bệnh ban đầu và phải đến khám chữa bệnh tại cơ sở đăng ký (trừ trường hợp cấp cứu) là cần thiết và phù hợp vì:

- Giúp cho việc quản lý các đối tượng người bệnh tại mỗi cơ sở.

- Sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực của cơ sở y tế tuyến dưới, thuận lợi cho người bệnh

- Duy trì tuyến điều trị, giảm chi phí không cần thiết và giảm tải cho các cơ sở khám chữa bệnh tuyến trên.

Đề xuất của cử tri về việc không phân biệt nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu mà người tham gia bảo hiểm y tế có quyền khám bệnh ở tất cả các cơ sở y tế và được thanh toán bảo hiểm y tế với mức tỷ lệ bằng nhau.... là chưa phù hợp với quy định hiện hành của Luật Bảo hiểm y tế, vừa gây khó khăn cho cơ quan quản lý vừa làm quá tải các bệnh viện tuyến trên, dẫn tới tình trạng lãng phí đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực cho tuyến dưới. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, Điều 28 Luật Bảo hiểm y tế đã quy định: Trường hợp cấp cứu, người tham gia bảo hiểm y tế được khám bệnh, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào và xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cùng với giấy tờ quy định trước khi ra viện để được hưởng quyền lợi về bảo hiểm y tế.

Bên cạnh đó, điều 22 sửa đổi bổ sung Luật Bảo hiểm y tế cũng quy định: Từ ngày 01/01/2016 mở thông tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong cùng địa bàn tỉnh, theo đó người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng theo đúng quy định của Luật mà không bị coi là trái tuyến.

Hiện nay, Bộ Y tế đang tập trung triển khai các Đề án: Bác sỹ gia đình, bệnh viện vệ tinh, đồng thời chỉ đạo nâng cấp và bổ sung các trang thiết bị, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chuyển giao các dịch vụ kỹ thuật cho đội ngũ y bác sỹ tuyến dưới, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, đảm bảo công bằng đối với người tham gia bảo hiểm y tế và bảo đảm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế.

Cử tri kiến nghị: “Theo quy định tại Thông tư số 01/TTHN - BYT ngày 23/01/2014 của Bộ Y tế thì người dân khi khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế chỉ được bảo hiểm thanh toán đối với một số loại thuốc nhất định quy định tại Thông tư này. Tuy nhiên, danh mục thuốc theo bảo hiểm y tế quy định tại Thông tư 01/TTHN - BYT rất hạn chế, không đảm bảo cho việc khám, chữa bệnh của người dân. Hiện nay, thuốc nằm trong danh mục BHYT chỉ điều trị được những bệnh thông thường, còn bệnh nặng, hiểm nghèo như bệnh ung thư thì phải mua thuốc ngoài danh mục BHYT, điều này gây rất nhiều khó khăn cho người dân nhất là những người thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu bổ sung vào danh mục thuốc bảo hiểm y tế một số loại thuốc phổ biến dùng trong khám, chữa bệnh, nhất là đối với những bệnh nguy hiểm để người dân yên tâm khi khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế, đồng thời tạo điều kiện thu hút người dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện và hỗ trợ có hiệu quả cho các hộ dân nghèo”.

Bộ Y tế Trả lời như sau:

Ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT và Thông tư số 01/TTHN-BYT ngày 23/01/2014 như phản ánh của cử tri đã hết hiệu lực từ 01/01/2015.

Thông tư số 40/2014/TT-BYT về thuốc tân dược đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Danh mục thuốc gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa như tim mạch, tiểu đường, ung thư, huyết học... So với Thông tư số 31/2011/TT-BYT, Thông tư số 40/2014/TT-BYT bổ sung mới 37 thuốc thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, phù hợp với sự phát triển khoa học của công nghiệp dược; bổ sung dạng dùng của 22 thuốc và mở rộng tuyến sử dụng của 77 thuốc để tạo điều kiện cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế được tiếp cận thuốc điều trị tại tuyến y tế cơ sở như bệnh viện huyện, trạm y tế xã, phường, giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho người bệnh, đồng thời góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Đối với 11 thuốc điều trị ung thư, chống thải ghép nằm ngoài danh mục ban hành kèm theo Thông tư 31/2011/TT-BYT và được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 50% nếu có thời gian tham gia BHYT trên 36 tháng, Bộ Y tế đã đưa vào danh mục thuốc  kèm theo Thông tư 40/2014/TT-BYT và bỏ quy định thời gian tham gia bảo hiểm y tế liên tục trên 36 tháng. Quy định này giúp bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, giúp cho người bệnh được sớm tiếp cận điều trị.

Thông tư số 05/2015/TT-BYT về danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm – tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc – tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010. Danh mục thuốc y học cổ truyền được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định và không phân hạng bệnh viện. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có một danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế.

Theo quy định tại Thông tư, định kỳ 02 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát để thực hiện sửa đổi, bổ sung danh mục đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và bảo đảm quyền lợi tham gia của người có thẻ bảo hiểm y tế.

Cử tri kiến nghị: “Đường tỉnh lộ 4 đã được chuyển thành Quốc lộ 28 (kéo dài), tuy nhiên hiện còn nhiều đoạn bị hư hỏng nặng, gây khó khăn trong lưu thông cũng như mất an toàn giao thông. Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm sớm có kế hoạch sửa chữa, nâng cấp tuyến đường này”.

Bộ Giao thông vận tải trả lời như sau:

Ngày 18/01/2016, Bộ GTVT có Quyết định số 148/QĐ-BGTVT chuyển tuyến Tỉnh lộ 4 (đường tỉnh 684), tỉnh Đắk Nông thành QL28 kéo dài. Đồng thời, tuyến đường cũng chưa được bổ sung vào quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam. Hiện tại, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 chưa bao gồm danh mục đầu tư nâng cấp tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ ngành đề xuất nguồn vốn đầu tư thích hợp, trước mắt trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri cho rằng công tác cải cách giáo dục vẫn chưa đạt yêu cầu, chương trình học thay đổi hàng năm nhưng chưa đạt hiệu quả thực sự, việc biên soạn biên tập sách giáo khoa còn nhiều bất cập. Cử tri đề nghị ngành giáo dục cần tiếp tục nghiên cứu để có giải pháp phù hợp”.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau:

Chương trình, sách giáo khoa hiện hành được thực hiện theo Nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội và được triển khai đại trà bắt đầu ở lớp 1 và lớp 6 từ năm học 2002-2003. Sau hơn mười năm triển khai, tổng kết Nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội cho thấy chương trình giáo dục phổ thông hiện hành chưa được xây dựng như một chỉnh thể xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12, từ cấp học đến các môn học, hoạt động giáo dục; một số nội dung chưa cân đối, chưa phù hợp với đối tượng. Sách giáo khoa chưa cân đối giữa yêu cầu khoa học và yêu cầu sư phạm; còn có những tình huống thực tiễn gượng ép; những sự kiện, số liệu, thuật ngữ còn thiếu nhất quán giữa các lớp trong cùng một môn học hoặc giữa một số môn học; chưa chú ý thỏa đáng đến việc hướng dẫn cách học và phát triển tư duy độc lập của hoạc sinh.

Để khắc phục những hạn chế trên, từ năm học 2011-2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng cắt giảm những nội dung trùng lặp, quá khó, chưa thật sự cần thiết đối với học sinh; cắt giảm các câu hỏi, bài tập đòi hỏi phải vận dụng sâu kiến thức lý thuyết, không phù hợp trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, dành thời gian cho các nội dung khác và để giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá, hướng dẫn học sinh học; điều chỉnh những nội dung trong sách giáo khoa trước đây sắp xếp chưa hợp lý.

Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Nghị quyết đã quy định về yêu cầu chất lượng chương trình giáo dục phổ thông, quản lý quá trình xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới.

Theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình giáo dục phổ thông; việc biên soạn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ do nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện (không phải như hiện nay chỉ có Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam biên soạn sách giáo khoa). Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành bộ tiêu chí đánh giá sách giáo khoa, trong đó có các tiêu chí về sự tuân thủ chương trình giáo dục phổ thông; nội dung kiến thức, phương pháp và kiểm tra – đánh giá; định hướng học liệu và thiết bị dạy học; hình thức và trình bày sách giáo khoa... Bộ tiêu chí là căn cứ để Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa đánh giá chất lượng các sách giáo khoa viết theo chương trình giáo dục phổ thông mới, làm căn cứ để các nhà xuất bản, các tổ chức cá nhân tham khảo khi biên soạn sách giáo khoa nhằm đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của chương trình giáo dục mới.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nên nghiên cứu soạn thảo sách giáo khoa sử dụng ổn định từ 10 năm đến 20 năm, nhằm hạn chế tốn kém cho người học và Nhà nước.

Việc thay đổi sách giáo khoa của các bậc học gây lãng phí ngân sách nhà nước và tốn kém cho gia đình học sinh; tuổi thọ của bộ sách giáo khoa sắp tới được sử dụng thống nhất trong bao nhiêu năm. Cử tri đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có đánh giá toàn diện về chương trình sách giáo khoa hiện hành một cách chi tiết, cụ thể hơn, xác định rõ những gì phù hợp và chưa phù hợp để xây dựng được lộ trình phù hợp cho công tác đổi mới sách giáo khoa.

Đề nghị nghiên cứu cải cách giáo dục, đặc biệt là sách giáo khoa phải mang tính kế thừa (lớp người trước học để lại lớp người sau học tiếp tục), nếu như việc thay đổi liên tục sẽ gây khó khăn, tốn kém cho phụ huynh và học sinh”.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau:

Thực tế, trong thế kỷ XX, ở các nước trong khu vực và trên thế giới, tuổi thọ bình quân của một bộ chương trình, sách giáo khoa thường từ 10 đến 15 năm; bộ Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông hiện hành của Việt Nam triển khai từ năm 2001, dự kiến đến năm 2018 sẽ bắt đầu thực hiện bộ Chương trình, sách giáo khoa mới (theo hình thức cuốn chiếu với lớp 1, lớp 6 và lớp 10). Việc thay đổi chương trình, sách giáo khoa là một vấn đề tất yếu và rất cần thiết, vừa để khắc phục những vấn đề bất cập, hạn chế của chương trình sách giáo khoa hiện hành; vừa đảm bảo tính cập nhật, đưa tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào giảng dạy trong các nhà trường, rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục Việt Nam với khu vực và thế giới, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trước đây, cũng như trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

Để biên soạn chương trình, sách giáo khoa tốt nhất và có thể sử dụng lâu dài, tránh tình trạng phải bổ sung, chỉnh lí quá nhiều, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức tổng kết đánh giá nghiêm túc về kết quả thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa (CT, SGK) hiện hành theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội khóa 10. Về cơ bản, CT, SGK hiện hành đã và đang góp phần đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, CT còn một số nội dung còn hàn lâm, chưa cân đối, chưa phù hợp với đối tượng, còn trùng lặp ở các môn học. SGK chưa cân đối giữa yêu cầu khoa học và yêu cầu sư phạm; còn có những tình huống thực tiễn gượng ép; những sự kiện, số liệu, thuật ngữ còn thiếu nhất quán giữa các lớp trong cùng một môn học hoặc giữa một số môn học; chưa chú ý thoả đáng đến việc tạo cơ hội phát triển ý tưởng khoa học và học cách học, chưa quan tâm phát huy năng lực tư duy độc lập của học sinh. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã tổ chức triển khai những nhiệm vụ khoa học, tham khảo kinh nghiệm xây dựng chương trình, sách giáo khoa của những nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như: Hoa kì, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Singgapo, Úc, Nhật Bản….; vận dụng  một cách sáng tạo, không dập khuôn máy móc, đáp ứng yêu cầu vừa hiện đại, hội nhập quốc tế vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và phù hợp với thực tiễn Việt Nam vào việc xây dựng CT giáo dục phổ thông mới theo yêu cầu Nghị quyết số 88/2014/QH10 của Quốc hội.

Thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH10 của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức biên soạn chương trình và một bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân biên soạn các sách giáo khoa khác, nhằm huy động được nhiều trí tuệ của các nhà xuất bản, các tổ chức và cá nhân có năng lực tham gia biên soạn sách giáo khoa; tạo ra nhiều nguồn thông tin đa dạng và phong phú, nhiều cách tiếp cận, nhiều cách thức tạo ra sách giáo khoa; tạo cơ hội có những sách giáo khoa phù hợp với từng vùng miền, đặc điểm của từng địa phương. Tất cả sách giáo khoa phải được Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa thẩm định trước khi phê duyệt cho phép sử dụng bảo đảm tính khoa học, công bằng. Tiêu chí lựa chọn thành viên Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa, tiêu chí đánh giá và quy trình thẩm định sách giáo khoa sẽ được công khai, minh bạch.

Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ hướng dẫn các cơ sở giáo dục lựa chọn, sử dụng bộ sách giáo khoa phù hợp với thực tiễn địa phương; hướng dẫn thư viện các nhà trường có giải pháp để người học trước để lại SGK cho người học lớp sau sử dụng tiếp tục, giảm bớt khó khăn, tốn kém cho phụ huynh và học sinh.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri tiếp tục bày tỏ sự bức xúc, lo lắng trước tình trạng sinh viên học xong đại học tốt nghiệp ra trường không có việc làm, việc này kéo dài nhiều năm nay mà Nhà nước chưa có giải pháp để khắc phục, lãng phí tiền của của người dân, làm cho đời sống người dân khó khăn lại càng khó khăn hơn khi phải vay mượn tiền lo cho con đi học. Cử tri kiến nghị Nhà nước quan tâm, nỗ lực hơn nữa tìm giải pháp trong việc đào tạo để học sinh, sinh viên ra trường có việc làm phù hợp giảm bớt gánh nặng cho xã hội, tăng cường kiểm tra giám sát đối với giáo dục Đại học. Đồng thời chú trọng nhu cầu thị trường lao động về lao động lành nghề để hướng dẫn, định hướng nghề nghiệp, tránh lãng phí nguồn lực xã hội”.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau:

Hiện nay, nhiều cơ sở đào tạo chưa chú trọng tới việc nghiên cứu nhu cầu nguồn nhân lực, chỉ đào tạo những gì trường có khả năng, chưa đào tạo những ngành xã hội cần, trách nhiệm đối với người học, đối với xã hội chưa cao. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành thiếu đồng bộ. Thông tin về nguồn nhân lực (phân theo các ngành nghề); nhu cầu việc làm của các ngành chưa công bố công khai hàng năm. Hệ thống quản lý lao động và việc làm không có thông tin dự báo nguồn nhân lực theo trình độ và ngành đào tạo trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu, thiếu thừa cục bộ, sinh viên tốt nghiệp khó tìm kiếm việc làm.

Để nhằm khắc phục tình trạng đào tạo không gắn với sử dụng nhân lực, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm, trong những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội, gắn kết giữa đào tạo, tuyển dụng và sử dụng lao động để giúp sinh viên tốt nghiệp ra trường có việc làm. Kết quả bước đầu, quy mô giáo dục đại học dần đi vào ổn định, chất lượng đại học có chuyển biến tích cực.

Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang tập trung vào một số giải pháp trong việc đào tạo  để học sinh, sinh viên ra trường có việc làm phù hợp, cụ thể :

- Đảm bảo các yếu tố chất lượng đầu vào cho giáo dục đại học (GDĐH); đổi mới chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, phù hợp thực tiễn Việt Nam, phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên.

- Quản lý chất lượng đào tạo theo hướng quản lý chất lượng tổng thể bao gồm quản lý các điều kiện đầu vào, quản lý quá trình đào tạo và quản lý chất lượng đầu ra; thực hiện 3 công khai, công bố chuẩn đầu ra; đánh giá và kiểm định chất lượng; thực hiện đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.

- Đổi mới quản lý GDĐH theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các trường đại học, cao đẳng.

- Định kỳ kiểm định và công khai kết quả kiểm định chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học và các chất lượng của các chương trình đào tạo trong giáo dục đại học.

- Khuyến khích các cơ sở đào tạo tăng cường kết nối với doanh nghiệp, cơ quan bằng nhiều hình thức hợp tác khác nhau: các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất tại các cơ sở đào tạo để đào tạo bồi dưỡng lao động, tạo nơi thực tập cho sinh viên; đào tạo theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp.

- Quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, chú trọng yếu tố vùng miền, đặc biệt là khu vực nông nghiệp và nông thôn; quy hoạch, xây dựng các khu đại học; chuẩn bị tốt các nguồn lực cho sự phát triển của toàn hệ thống; chú trọng đầu tư phát triển hệ thống giáo dục đại học, phát triển một hệ thống các trường đại học chất lượng, có tính cạnh tranh và tính thực nghiệm cao.

- Phối hợp với các bộ, ngành và chính quyền địa phương triển khai thực hiện việc giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động của trường; theo dõi, đánh giá và công bố rộng rãi kết quả đánh giá các sản phẩm sản phẩm đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường để người học, nhà đầu tư, và toàn xã hội biết. Thống nhất chia xẻ thông tin liên quan tới đội ngũ lao động; nhu cầu lao động theo các nhóm ngành nghề để tạo căn cứ cho các ngành hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực và tạo điều kiện cho Bộ Giáo dục và Đào tạo trong quá trình chỉ đạo tổ chức đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học.

- Tăng cường kiểm tra, thanh tra và kiên quyết xử lý vi phạm: rà soát các tiêu chí đảm bảo chất lượng, điều kiện mở trường, liên kết đào tạo… Phối hợp với các bộ, ngành và chính quyền địa phương triển khai thực hiện việc giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động hệ thống GDĐH; kiên quyết xử lý vi phạm, buộc dừng tuyển sinh, thu hồi quyết định cho phép đào tạo nếu không đảm bảo chât lượng và công bố rộng rãi kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm để người học, cơ quan quản lý và toàn xã hội biết.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Đề án ‘‘Quỹ khởi nghiệp giành cho sinh viên’’ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt. Khi Đề án được phê duyệt và đi vào hoạt động, sẽ hỗ trợ khởi nghiệp cho những sinh viên tốt nghiệp có đủ năng lực và nhu cầu.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri có ý kiến nên xem xét lại việc các trường đại học dân lập tuyển sinh tràn lan dẫn đến đào tạo con em ra trường không có chất lượng. Đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh”.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau:

Trong những năm qua, hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều thực hiện nghiêm túc quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy vậy, vẫn còn có một số trường đại học, cao đẳng ngoài công lập không thực hiện đúng các quy định về tuyển sinh và đào tạo như: tuyển sinh vượt chỉ tiêu, sai đối tượng; tuyển sinh và thực hiện đào tạo liên thông, liên kết sai quy định. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kiên quyết xử lý đối với các cơ sở vi phạm: Một số trường đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, bị xử lý dừng tuyển sinh và đào tạo, giảm trừ chỉ tiêu tuyển sinh của năm học sau.

Để tránh việc tuyển sinh tràn lan không chỉ đối với các trường ngoài công lập, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện một số giải pháp sau :

- Giao quyền cho các cơ sở đào tạo tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm trên cơ sở các điều kiện đảm bảo chất lượng, bảo đảm công khai, minh bạch, tạo điều kiện để xã hội, người học cùng giám sát.

 - Củng cố đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lýtrong các cơ sở đào tạo: tiếp tục triển khai đào tạo ở trong nước và ngoài nước theo các Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Tiếp tục định kỳ rà soát các điều kiện đảm bảo chất lượng các ngành, và xử lí nghiêm minh đối với các sai phạm.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấn chỉnh công tác tuyển sinh và tổ chức đào tạo: phối hợp với các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương tổ chức nhiều nhóm kiểm tra theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau để kịp thời phát hiện sai phạm để chấn chỉnh và xử lí nghiêm minh.  

- Phối hợp với các bộ, ngành và chính quyền địa phương triển khai thực hiện việc giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động của trường; theo dõi, đánh giá và công bố công khai, rộng rãi kết quả đánh giá các sản phẩm sản phẩm đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở đào tạo để người học, nhà đầu tư, và toàn xã hội biết.

Cử tri kiến nghị: “Hai thôn Đắk Hung và Đắk Tân thuộc thị trấn Đắk Mâm (huyện Krông Nô) nhưng nằm xa trung tâm thị trấn và giao thông không thuận tiện nên rất khó khăn trong quản lý của chính quyền thị trấn cũng như khi người dân thực hiện những việc có liên quan đến chính quyền thị trấn. Vì vậy, cử tri kiến nghị sớm điều chuyển thôn Đắk Tân về xã Tân Thành (huyện Krông Nô), thôn Đắk Hưng về xã Nam Xuân (huyện Krông Nô) cho phù hợp”.

Bộ Nội vụ trả lời như sau:

Để điều chuyển thôn Đắk Tân thuộc thị trấn Đắk Mâm về xã Tân Thành và thôn Đắk Hưng thuộc thị trấn Đắk Mâm về xã Nam Xuân thì phải thực hiện việc điều chỉnh địa giới hành chính các xã Tân Thành, Nam Xuân và thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Do vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cần xem xét nhu cầu thực tế của địa phương, căn cứ Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính để lập Hồ sơ, Đề án điều chỉnh địa giới hành chính các xã Tân Thành, Nam Xuân và thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông trình các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri có ý kiến về những người tham gia quân đội, lực lượng Thanh niên xung phong… trong những năm chiến tranh gian khổ sau 1975 nhất là nghỉ trước năm 1990 về nghỉ hưởng chế độ quá thấp. Những quân nhân tham gia về sau 1975, nay nghỉ hưu thì lại được hưởng chế độ cao hơn so với những người tham gia cách mạng 2 thời kỳ trước; vì vậy đề nghị Nhà nước sớm xem xét để điều chỉnh chính sách chế độ”.

Bộ Lao động – Thương binh và xã hội trả lời như sau:

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước tháng 4 năm 1993. Trong giai đoạn 2003- 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu qua các thời kỳ nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện, tuy nhiên cũng vẫn còn một bộ phận người nghỉ hưu hiện có mức lương hưu thấp. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu và kiến nghị phương án xử lý đối với mức lương hưu của người có mức lương hưu thấp, trình Chính phủ trong Quý IV/2015. Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, ngày 11/11/2015 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó: (i) Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở; (ii) Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/4/2016, tiếp tục thực hiện mức điều chỉnh đối với các đối tượng được quy định tại Nghị quyết số 78/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội; (iii) Từ ngày 01/5/2016, lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, tiếp tục giữ mức đã tăng 8% như đã thực hiện năm 2015.

Theo dự thảo Nghị định của Chính phủ thì (i) đối với người hưởng lương hưu mức tăng dự kiến là 250.000 đồng/người/tháng đối với người có mức lương hưu từ 1.750.000 đồng/người/tháng trở xuống; tăng lên bằng 2.000.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức lương hưu từ trên 1.750.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.000.000 đồng/người/tháng; (ii) đối với người hưởng trợ cấp hằng tháng, mức tăng thêm là 150.000 đồng/người/tháng đối với người có mức hưởng từ 1.850.000 đồng/người/tháng trở xuống; tăng lên bằng 2.000.000 đồng/người/tháng đối với người có mức hưởng từ trên 1.850.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.000.000 đồng/người/tháng.

Như vậy, ở lần điều chỉnh lần này sẽ hướng đến đối tượng có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp hằng tháng thấp, mức điều chỉnh tăng thêm cũng sẽ thực hiện theo số tiền tuyệt đối thay cho tỷ lệ như những lần điều chỉnh trước đây. Sau khi thực hiện việc điều chỉnh nêu trên, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách lương hưu trong thời gian tới.

Riêng về chính sách, chế độ đối với người có công với cách mạng được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

Cử tri kiến nghị: “Cử tri kiến nghị hộ nghèo thì được hỗ trợ về tiền điện phục vụ sinh hoạt, nhưng gia đình có công với cách mạng thì không được. Trong khi đó chế độ hỗ trợ người có công còn thấp nên nhiều gia đình chính sách còn gặp nhiều khó khăn, vì vậy đề nghị xem xét hỗ trợ tiền điện sinh hoạt cho gia đình người có công như đối với hộ nghèo”.

Bộ Lao động – Thương binh và xã hội trả lời như sau:

Hiện tại quy định của pháp luật và khả năng đáp ứng của ngân sách Nhà nước chưa thể thực hiện được kiến nghị này. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu kiến nghị trên để đề xuất vào thời điểm phù hợp với điều kiện ngân sách của Nhà nước.

Cử tri kiến nghị: “Đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên quan nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách đối với người có công với cách mạng cho phù hợp hơn. Ví dụ, theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 thì điều kiện xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ ngày 01/8/1961 đến 30/4/1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học ở chiến trường B, C, K.

Nhiễm chất độc hóa học dẫn đến 01 trong các trường hợp: Mắc bệnh theo danh mục bệnh, tật do Bộ Y tế  quy định làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật theo danh mục dị dạng, dị tật do Bộ Y tế quy định. Như vậy, đối với một số trường hợp như người có công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học hay hành quân ngang qua nhưng không mắc các bệnh trên mà biến chứng sang các bệnh khác hoặc không mắc bệnh nhưng ủ bệnh, di truyền sang thế hệ thứ ba thì không được hưởng chính sách này. Điều này dẫn đến một nhóm người có cống hiến, bị phơi nhiễm chất độc hóa học nhưng chưa được hưởng đầy đủ chính sách ưu đãi của Nhà nước. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nên xem xét, bổ sung thêm điều kiện xác nhận nhằm đảm bảo quyền lợi cho người có công với cách mạng.

Đối với người đang hưởng chế độ hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (trước ngày 01/01/2013) có nguyện vọng khám giám định lại nhưng kết quả giám định cho thấy họ không mắc các bệnh nằm trong danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học hoặc tỷ lệ suy giảm khả năng lao động dưới 21%. Theo quy định tại Nghị định số 31/2013/NĐ-Cp ngày 09/4/2013 trường hợp này không được tiếp tục hưởng trợ cấp hoặc chỉ nhận trợ cấp 01 lần làm phát sinh những kiến nghị, khiếu nại. Vì vậy, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần có hướng xử lý như bảo lưu kết quả trước đây để đảm bảo việc thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước”.

Bộ Lao động – Thương binh và xã hội trả lời như sau:

a) Về kiến nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách đối với người có công với cách mạng cho phù hợp hơn.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xin tiếp thu ý kiến của cử tri. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang hoàn thiện nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong thời gian tới.

b) Về kiến nghị xem xét, bổ sung thêm điều kiện xác nhận về bệnh, tật đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Việc điều chỉnh danh mục bệnh, tật có liên quan tới phơi nhiễm chất độc hóa học để xác lập hồ sơ hưởng chính sách theo Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển nội dung kiến nghị đến Bộ Y tế để trả lời cụ thể.

c) Về kiến nghị đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học được công nhận trước ngày 01/01/2013, đã giám định lại nhưng kết quả không mắc bệnh hoặc có tỷ lệ SGKNLĐ dưới 21% đã bị dừng trợ cấp.

Tại Khoản 3, Điều 7 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH quy định những trường hợp được điều chỉnh trợ cấp theo quy định tại Điểm c, Khoản 6, Điều 42 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP mà trong hồ sơ ghi nhận mắc bệnh, tật thuộc Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nếu có nguyện vọng đi giám định lại thì Sở Lao động – Thương binh và Xã hội giới thiệu đến Hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền để khám giám định, kết luận tỷ lệ suy giảm khả năng lao động để thực hiện chế độ trợ cấp, phụ cấp hàng tháng theo quy định.

Tuy nhiên, sau khi giám định lại, một số đối tượng được Hội đồng giám định y khoa kết luận không mắc bệnh, tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học hoặc kết luận tỷ lệ SGKNLĐ dưới 21%. Điều đó cho thấy hồ sơ kết luận bệnh, tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học để hưởng chế độ ưu đãi của những đối tượng này trước đây là không đúng quy định. Vì vậy, kiến nghị cần có hướng xử lý như bảo lưu kết quả trước đây là không phù hợp.

Cử tri kiến nghị: “Việc thực hiện chế độ, chính sách theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg và 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ gặp nhiều khó khăn, trong đó có liên quan đến việc xác định đơn vị mà đối tượng từng công tác, chiến đấu, có nhiều trường hợp phải bỏ, có trường hợp đã đau ốm chết nên rất thiệt thòi. Ví dụ như có nhiều người là bộ đội sư đoàn 470-471 đóng tại Đắk Lắk, Gia Lai khi làm chế độ từ xã lên huyện, tỉnh rồi Trung ương, khi tìm danh mục thì 02 sư đoàn này lại không có danh mục. Đề nghị Bộ Quốc phòng cần phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan đẩy nhanh tiến độ giải mã phiên hiệu các đơn vị tham gia các cuộc chiến tranh giải phóng đât nước, bảo vệ tổ quốc để thuận lợi trong việc xác định và giải quyết chế độ cho các đối tượng có liên quan”.

Bộ Quốc phòng trả lời như sau:

Việc giải quyết chế độ chính sách đối với những người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ chính sách đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong Quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ trưởng Chính phủ về chế độ chính sách đối với các đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia; giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc đã và đang được các cơ quan chức năng, địa phương, đơn vị phối hợp thực hiện theo quy trình, quy định của pháp luật. Quá trình thực hiện cơ quan chủ trì và đơn vị liên quan phải dựa vào nhiều yếu tố; trong đó, có kết quả giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị. Đến nay, việc giải mã phiên hiệu đơn vị đã hoàn thành, giúp xác định các thông tin liên quan đến các đơn vị như: Ký hiệu, phiên hiệu, mật danh, hòm thư, địa điểm đóng quân, thời gian, khu vực tham gia chiến đấu, phối thuộc chiến đấu; đây là một trong những yếu tố để làm căn cứ trong việc giải quyết chế độ chính sách còn tồn đọng sau chiến tranh. Kết quả giải mã đã được Bộ Quốc phòng bàn giao cho Cục Người có công thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố từ ngày 01/10/2014 để quản lý, khai thác và cung cấp thông tin về các đơn vị quân đội. Mọi cá nhân có yêu cầu về thông tin đề nghị liên hệ với Ban Chính sách, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố; Sở Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp tỉnh để được cung cấp và xem xét giải quyết.

 Riêng đối với Sư đoàn 470 và Sư đoàn 471 mà cử tri kiến nghị: Qua tra cứu, rà soát, cả hai sư đoàn đều có trong danh sách giải mã phiên hiệu đơn vị (cấp sư đoàn) và có thời gian hoạt động chiến đấu tại Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Bình, Quảng Trị từ những năm 1973 - 1989; tuy nhiên, quá trình giải quyết phải xem xét cụ thể từng đơn vị trực thuộc 2 sư đoàn từ cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội (tương đương) và thời gian của từng đơn vị, từng cá nhân cụ thể có tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên địa bàn hay không thì mới có cơ sở để xem xét, giải quyết.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Kết quả trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri của các Bộ, ngành Trung ương
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO